Tin tức

CÁC BƯỚC SƠ CỨU BỎNG Ở TRẺ EM PHẦN I – BỎNG NHIỆT ƯỚT

BỎNG NHIỆT ƯỚT

I. ĐẠI CƯƠNG:
– Bỏng nhiệt ướt là loại bỏng thường gặp, chiếm hơn 75% các loại bệnh bỏng. Tác nhân gây bỏng thường là nước sôi, nước canh nóng, cháo nóng … Bỏng do nhiệt ướt thường nhiệt độ không quá cao chỉ từ 100 độ C đến 200 độ C nhưng thường là bỏng diện rộng và phức tạp.
– Bỏng là một trong những tai nạn rất nguy hiểm đối với trẻ em. Bỏng không những gây đau đớn, việc chữa trị phức tạp, lâu dài, tốn kém mà bỏng còn để lại nhiều di chứng nặng nề như sẹo, co kéo cơ, tàn phế suốt đời, thậm chí khiến trẻ tử vong.

Bỏng nhiệt ướt

Bỏng nhiệt ướt

II. NGUYÊN NHÂN:
Mọi nguyên nhân gây bỏng nhiệt ướt ở trẻ em đều do sự bất cẩn của người lớn như: Xả nước nóng vào chậu tắm trước rồi để con lại một mình trong phòng tắm (để ra nhấc xoong – nồi, nghe điện thoại …), để nồi canh sôi, phích nước nóng, nồi cháo nóng … tại vị trí trẻ dễ tiếp xúc, dễ làm đổ … nên gây bỏng.

III. SƠ CỨU BỎNG NHIỆT ƯỚT
Việc đầu tiên và quan trọng nhất là chặn đứng tác hại của nhiệt ướt. Ngay cả khi da không còn tiếp xúc với tác nhân gây bỏng, nhiệt tích tụ ở vết bỏng vẫn tiếp tục gây tổn thương sâu hơn. Làm nguội vết thương bằng nước giúp giảm nhiệt, giảm đau, giảm phù nề, viêm nhiễm và giảm độ sâu của vết thương.

Bỏng nhiệt ướt

Bỏng nhiệt ướt

– Tốt nhất là đặt phần bị bỏng của cơ thể ở dưới vòi nước mát sao cho phần bị bỏng ở bên dưới và nước không xối trực tiếp vào vết bỏng mà chỉ chảy dàn qua, làm như vậy sẽ tránh được việc gây vỡ nốt phỏng (nếu có) và tăng hiệu quả làm mát vì khi nước đi qua vùng bỏng sự bay hơi nước sẽ kéo nhiệt độ của vùng bị bỏng giảm xuống. Làm liên tục trong vòng 20 – 30 phút sau đó mới chuyển sang các bước sơ cứu khác. Để tạo dòng nước có thể dùng vòi nước hoặc bất cứ vật đựng nào để dội nước từ từ theo cách trên. Trong trường hợp không có nước sạch, có thể dùng bất kỳ loại nước nào xung quanh đó để sơ cứu vì nhiễm khuẩn sẽ có kháng sinh để điều trị còn da thịt đã chín khi bị bỏng thì chỉ có thể loại bỏ.
– Nếu vùng bị bỏng có dính với quần áo, không cố cởi ra, cắt bỏ toàn bộ phần áo quần che phủ vết bỏng, rồi tiếp tục xử lý nước mát như hướng dẫn bên trên. Chú ý không cởi bỏ quần áo để tránh gây lột da vùng bỏng, cũng không lộn áo qua đầu trẻ vì có thể làm bé bị bỏng ở mặt.
– Tháo bỏ tất cả các vật dụng trang điểm ở gần vết bỏng, vì khi bị bỏng sẽ xảy ra phản ứng viêm phù nề tại chỗ, những vật dụng này sẽ đóng vai trò như một loại dây thắt làm máu tại vùng bỏng kém lưu thong, dẫn đến lâu lành vết bỏng. Ngoài ra chúng còn gây đau đớn và loét vùng da ngay bên dưới.
– Không bôi bất cứu chất/vật liệu gì như kem đánh răng, lòng trắng trứng, mắm tôm … lên vết bỏng để tránh làm gia tăng tổn thương.
– Trấn an và cho bé dùng thuốc giảm đau (paracetamol) nếu cần.
Nhanh chóng làm mát vết bỏng bằng nước mát trong vòng 20 phút là biện pháp quan trọng số một giúp giảm thiểu mức độ tổn thương.

IV. ĐÁNH GIÁ ĐỘ SÂU TỔN THƯƠNG BỎNG
Đánh giá độ sâu tổn thương bỏng là công việc cần làm hằng ngày và mỗi khi thay băng bỏng. Độ sâu tổn thương bỏng có thể thay đổi theo chiều hướng tích cực nếu sơ cứu và điều trị đúng cách và ngược lại nếu sơ cứu và/hoặc điều trị không đúng cách. Tính trung bình khi độ sâu bỏng tăng lên một độ, chi phí điều trị trung bình sẽ tăng lên 5 – 10 lần và thời gian điều trị sẽ tăng lên 1,5 – 2,0 lần.
4.1. Bỏng độ 1: Phản ứng viêm da sau bỏng, vết bỏng khu trú ở phần thượng bì da.
– Da đỏ lên, không có phỏng nước.
– Chỉ lớp da ở nông nhất bị ảnh hưởng.
– Vết bỏng lành nhanh, không để lại sẹo.
4.2. Bỏng độ 2:
– Da bị tổn thương sâu hơn, tạo phỏng nước, gây đau đớn (tuyệt đối không được chọc phá các bọng nước này).
– Một phần chân bì (phần sâu của da) vẫn còn nên da có thể tái tạo được.
– Nếu điều trị đúng sẽ không để lại sẹo, trừ khi diện tích bỏng quá rộng.
– Nghiệm pháp rút chân lông dương tính (khi nhổ lông vùng bị bỏng bệnh nhân sẽ đau vì phần chân bì vẫn còn gắn với lông)
4.3. Bỏng độ 3:
– Hủy hoại toàn bộ bề dày của da.
– Thường không có bóng nước vì lớp trên cùng của da đã bị phá hủy.
– Vùng da bỏng đổi màu có mầu trắng hoặc cháy sém.
– Nghiệm pháp rút chân lông âm tính (khi nhổ lông vùng bị bỏng bệnh nhân sẽ không đau vì phần chân bì đã chết không còn gắn với lông).
– Phải ghép da để điều trị.
– Để lại sẹo (thường là sẹo co kéo) kể cả nếu điều trị đúng.
4.4. Bỏng độ 4:
– Hủy hoại toàn bộ bề dày của da.
– Thường không có bóng nước vì lớp trên cùng của da đã bị phá hủy.
– Bỏng sâu đến phần cơ và gân xương.
– Phải ghép da để điều trị, đôi khi phải tháo bỏ phần khớp bị tổn thương dẫn đến tàn phế.
– Để lại sẹo (thường là sẹo co kéo) kể cả nếu điều trị đúng.

V. KHI NÀO CẦN ĐƯA TRẺ ĐI KHÁM
Tất cả các trẻ bị bỏng đều nên đưa đến bác sỹ để khám lại, tuy nhiên những trường hợp sau đây bắt buộc phải cho trẻ đến cơ sở y tế ngay để đảm bảo an toàn tính mạng của trẻ:
– Bỏng diện rộng ở một phần cơ thể (bỏng toàn bộ lưng, hoặc ngực và bụng, hoặc bỏng toàn bộ một chi). Bỏng diện rộng rất nguy hiểm vì gây mất nhiều nước và gây đau đớn cho trẻ.
– Bỏng ở vùng mặt, vùng bàn tay, vùng sinh dục.
– Bỏng từ độ 2 trở lên.

VI. CHĂM SÓC VÀ ĐIỀU TRỊ BỎNG
6.1. Bỏng độ 1:
Có thể dùng lá lô hội (aloe vera) là vũ khí rất tốt trong điều trị bỏng nhẹ. Bôi gel lô hội (loại hàm lượng 100%) lên vết bỏng vài lần mỗi ngày. Hoặc lấy lá lô hội cắt từng đoạn rồi xẻ mỏng, áp vào da để nhựa cây tiếp xúc với chỗ bỏng.
6.2. Bỏng độ 2: Việc điều trị phức tạp hơn, cần tham khảo ý kiến bác sĩ. Sau đây là một số gợi ý:
+ Thực hiện 2 lần mỗi ngày: Tráng vết bỏng bằng nước muối sinh lý. Việc này giúp tẩy rửa vi trùng và phần da chết khỏi bề mặt vết thương.
+ Hong khô vết bỏng: Bôi kem silver sulfadiazine 1% (Silvirin, Silvadene) lên vết bỏng. Loại kem kháng khuẩn này tỏ ra rất hiệu quả trong làm lành vết thương, giúp ngăn ngừa nhiễm trùng. Cần bôi kem bằng dụng cụ vô trùng. Lấy que đè lưỡi vô trùng mua ở hiệu thuốc để bôi một lớp dày kem lên vết bỏng. Cần dùng rất nhiều kem. Trong lần thay băng sau đó, nếu thấy toàn bộ kem bôi lần trước đã thấm vào băng, không còn đọng lại trên bề mặt vết bỏng thì nên hiểu là bạn dùng thuốc chưa đủ.
+ Băng vết bỏng bằng gạc vô trùng. Một nhược điểm của băng gạc thông thường là cho phép tổ chức hạt mới hình thành tại vết thương mọc xuyên qua khe hở của gạc, gây bám dính. Vì vậy, việc thay băng nhiều khi trở nên khó khăn và rất đau đớn đối với trẻ. Cố gắng tháo bỏ băng gạc có thể gây tổn thương da, khiến vết thương lâu lành. Băng tulle gras giúp khắc phục tình trạng này. Đây là một loại băng làm từ vật liệu đặc biệt, được tẩm thuốc, không bám dính vào bề mặt vết thương. Nó giúp duy trì độ ẩm, đẩy nhanh quá trình lành vết thương và giúp việc thay băng trở nên dễ dàng, không đau đớn.
Hãy đặt một tấm băng tulle gras lên lớp kem, trước khi đắp băng gạc vải. Nếu vết thương tiết dịch nhiều, có thể lót thêm một lớp bông trên lớp gạc vải. Sau đó dùng băng chun băng vùng bị tổn thương. Tính từ trong ra ngoài, cần băng theo thứ tự: kem kháng khuẩn, gạc tull gras, gạc vô trùng, bông và cuối cùng là băng chun.
+ Kéo căng da để phòng ngừa vết bỏng co rút và hạn chế vận động sau này. Thông thường, khi da bị bỏng, phần da lành xung quanh bắt đầu co cụm lại, o ép vùng da bị bỏng. Nếu vết bỏng nằm ở phần cơ thể thường bị co giãn nhiều (ví dụ da lòng bàn tay và ngón tay), nguy cơ co rút sẽ lớn. Hãy thực hiện các bài tập kéo căng vùng da xung quanh vết bỏng khoảng 10 lần mỗi ngày, mỗi lần một phút. Điều này giúp ngăn ngừa sự co rút vết bỏng gây khó khăn cho vận động sau này.
+ Khi phần da bị bỏng bong ra, có thể nhìn thấy một lớp da mới màu đỏ nằm ở dưới. Lớp da này sẽ dần chuyển sang màu hồng. Khi này bạn có thể ngừng bôi thuốc và không phải băng vết thương nữa.
6.3. Bỏng độ 3 và độ 4: Nhất thiết phải điều trị tại bệnh viện, không tự ý điều trị tại nhà.
Chú ý: Bỏng ở trẻ em là bệnh lý hết sức nguy hiểm, có thể gây tử vong. Da của trẻ chưa đạt được độ dày như của người lớn, vì vậy trẻ bị bỏng nhanh hơn. Chỉ cần 5 giây với nước nóng 60 độ có thể khiến bé bị bỏng độ 3 đến độ 4.

Bỏng nhiệt ướt

Bỏng nhiệt ướt

VII. PHÒNG TRÁNH
– Để ngăn ngừa bỏng ở trẻ em, người lớn cần biết những điểm nguy hiểm tiềm tàng trong căn nhà mình. Phòng bếp, phòng tắm và phòng khách là những căn phòng trẻ dành nhiều thời gian sinh hoạt và cũng là nơi có nhiều cơ hội hơn để trẻ tiếp xúc với vật nóng dễ gây bỏng.
– Đối với trẻ dưới 2 tuổi, luôn trông chừng trẻ mọi lúc, mọi nơi là cách tốt nhất để phòng tránh tất cả các loại bỏng cho trẻ. Khi bé đủ lớn để hiểu, hãy dạy cho bé biết từ “nóng” và giải thích rằng cần phải tránh xa.
Bên cạnh đó, bạn cũng cần làm theo các bước sau để giữ cho trẻ an toàn:
+ Cách ly trẻ khỏi những vật dễ gây bỏng: Như phích nước sôi, nồi canh nóng, nồi cháo nóng … ở nơi trẻ không thể sờ hoặc với tới như để trên giá cao, trong tủ có khóa an toàn.
+ Bố trí bếp và nơi nấu ăn hợp lý: Đặt bếp ở trên nền phẳng, cao để trẻ không với tới hoặc có vách ngăn không cho trẻ tới gần; Không bế, ẵm trẻ khi đang nấu ăn hoặc đang cầm đồ vật nóng; Khi nấu ăn luôn quay tay cầm, cán xoong chảo vào phía trong; Khi bê nước nóng, thức ăn mới nấu luôn quan sát tránh xa trẻ để tránh va đụng.
+ Kiểm tra nhiệt độ của thức ăn, đồ uống trước khi cho trẻ sử dụng; Kiểm tra nhiệt độ nước trước khi tắm cho trẻ, không để trẻ tự tắm với vòi nước nóng lạnh.
– Phổ biến sâu, rộng kiến thức về sơ – cấp cứu bỏng cho người dân.

Ths.Bs.Trương Tản Viên